Tham gia KIENTRUC để nhận tư vấn mới nhất
Câu chuyện về kiến trúc

Thuở tôi còn hay được gọi đi theo cùng Ông Sáu (biệt danh của Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt), có lần ngồi trên xe Ông hỏi: “Đậm đà bản sắc trong kiến trúc là cái gì?”
Câu hỏi quá khó. Cũng may đường xa, thời gian có đủ để tôi được giãi bày:
– Nét khác biệt luôn tồn tại trong từng cá thể, từng cộng đồng. Có thể liều lượng nhiều ít khác nhau, nhưng ngay cả những khi được coi là ít nhất nó vẫn đủ sức giúp ta phân biệt người này với người khác, nơi nọ với nơi kia. Thượng đế đã làm rất giỏi công việc này.
– Để kiếm tìm bản sắc, các nhà khoa bảng về lý luận thường hành xử rất công nghiệp và rất hiện đại. Công việc này thường được tiến hành với nghi thức một đề tài khoa học các đẳng cấp: Các GS có mặt đầu tiên, mỗi người nhận một phong bì trong đó có cả lời đề nghị viết một tham luận đủ dài để đọc hết khoảng thời gian đã tính toán trong lịch trình. Ít ngày sau đại quân tề tựu, quan chức có mặt, hội thảo long trọng khai mạc và cuối cùng là tưng bừng kết thúc thắng lợi rực rỡ.
– Cũng có thể coi bản sắc như là một thành phần hay thành tố (tuy chưa hoàn toàn chính xác), nó sẽ cùng với những nguyên liệu khác giúp ta làm nên giá trị của công trình kiến trúc. Nhưng hình như có sự nhầm lẫn về định lượng một khi nó được nhìn nhận như một thứ khoáng sản, đưa khoa học hiện đại đến thăm dò tính toán trữ lượng rồi tiến hành khai thác theo kiểu công nghiệp thì chắc là không ổn.
“Mình đã nhiều lần ngồi nghe hội thảo của các bạn nhưng đến nay vẫn phải nhắc lại với nhau câu hỏi vừa rồi”. Ông Sáu đã nói vậy!
Cứ mỗi lần nhận công trình, tôi lại một mình mò mẫm kiếm tìm bản sắc.
Chỉ có con tim nghệ sỹ mới đủ khả năng kích hoạt một bộ óc sáng tạo để phát hiện, rồi sai khiến đôi bàn tay cần mẫn, khéo léo thực thi những cử chỉ chậm rãi, khẽ khàng, cẩn trọng và chính xác… mới mong gạn lọc được một chút gì đó thuộc về bản sắc.
Cùng một lúc cả chân tay, trí óc và trái tim đều làm việc thì đấy chính là lao động nghệ thuật.
“Gạn lọc – Cái đó đúng”. Ông Sáu lại gật gù.
Ước vọng của tôi là đạt đến sự thừa nhận lao động sáng tác kiến trúc là lao động nghệ thuật và KTS là một nghệ sỹ.
Tôi được coi là người bảo thủ vì không dễ dàng nhượng bộ trong công việc, rất dễ dị ứng với những gì thuộc về hàn lâm hoặc đương đại,… Bạn bè ngờ vực hình như tôi biết cách TÌM đến mức có thể TÒI ra được cái gì đó để trang bị cho công trình của mình khả năng nói lên câu chuyện của chính nơi cần có nó, để công trình đứng vững được tại đó… Có lẽ nhờ vậy mà nét đặc thù đã được tạo ra cho từng tác phẩm.
Đối với tôi, Đài tưởng niệm Bắc Sơn là công việc nghề nghiệp đáng kể đầu đời, tôi làm ra nó ở tuổi năm mươi (năm 1992). Nhà điêu khắc Lê Công Thành – Thầy tôi nhận xét: “Đây là thiên định”.
Sự lựa chọn của tôi lúc đó cũng rất giản dị. Tôi cũng chỉ định làm ra ngôi miếu và tấm bia nhưng không phải bằng cách xây lên hoặc đắp vào mà là đào xuống hoặc khoét đi, khoét sâu đến mức đục thủng. Một số phụ liệu đi kèm cũng là những gì người Việt thường dùng để tưởng nhớ người đã khuất: Hoa lá, cỏ cây, mây trời, hương khói,… Một thứ điêu khắc không rõ chủ đề, không là cái gì, con gì hoặc ai đó. Tất cả chỉ có thế thôi, nhưng nó lại được Thủ tướng lựa chọn mặc dù nó bị xếp ở giải Nhì. Lúc này là năm 1992.
Dành cho Đài tưởng niệm Bắc Sơn là một cuộc chê bai hoành tráng và kéo dài đến cả chục năm trời. Đây không phải là dư luận quần chúng mà là phát ngôn của quan chức cấp cao. Ông Thứ trưởng Quốc phòng nói nó là cái lô cốt, ông Bộ trưởng Văn hóa nói nó giống cái ghế đẩu, còn ông GS.TS Viện trưởng Khảo cổ dùng lý thuyết phong thủy chứng minh nó là cái đầu ruồi trên nòng súng AK nhằm vào lăng Bác… Tôi nghe được tất cả nhưng cảm thấy vui vui vì nó giống như những câu chuyện thời cải cách. Thế nhưng điều đó lại làm cho Ông Sáu bận lòng. Ông không vui nên Ông cũng sợ tôi buồn, có nhiều cử chỉ giúp tôi nhận biết là Ông rất thương tôi.
Cuối năm 2001, tôi đang quanh quẩn ở Đà Lạt để chữa lại phần thô của Đài Tưởng niệm huyện Lâm Hà, văn phòng Ông Sáu gọi điện hẹn với tôi 2 giờ chiều hôm sau đến 16 Tú Xương để truyện trò cùng ông. Trước đây, tôi đã nhiều lần gặp Thủ tướng, mấy lần Ông ra thăm công trường. Cũng có hai lần tôi theo anh Ngô Xuân Lộc và anh Nguyễn Mạnh Kiểm vào văn phòng chính phủ, nhưng tất cả những lần đó tôi đâu có phải nói điều gì. Nay một mình ngồi với thủ tướng tôi thấy lo lo. Tôi gọi điện hỏi KTS Nguyễn Trọng Huấn và được trả lời ngay: “Ông Sáu sẽ hỏi chú mày về cái đài tưởng niệm Bắc Sơn”.
Tôi gọi Nguyễn Duy hỏi việc xưng hô nên thế nào? Duy bảo: “Tôi gọi Anh Sáu xưng em, bác cũng thế thôi cho nó thống nhất”. Tôi yên chí và đến rất đúng giờ.
Cả buổi chiều ngồi bên Ông, tôi đã giãi bày cặn kẽ tất cả những gì tôi suy nghĩ để làm nên Đài Tưởng niệm Bắc Sơn: Cái nọ, cái kia vì sao lại như thế? Chỗ này, chỗ khác tôi đã ước ao gửi gắm những gì? Liệu nó có ghi nhận và gìn giữ lấy được không?… Tôi đều nói rõ. Ông ngồi nghe và thỉnh thoảng mới nói lời ngắn ngủi: … “Cái đó có…”, “Cái đó cũng…” hoặc “Cái đó hình dung được đấy”… Tôi cảm thấy hạnh phúc khi mình làm được điều mình đã nói. Việc đó là rất khó.
Trước lúc chia tay, Ông nói: “Khi mình lựa chọn nó ta đâu đã quen biết gì nhau. Cái mô hình bé nhỏ đó đã đối thoại với mình, đã thuyết phục mình bằng chính những điều Hiệp nói hôm nay. Thôi, bây giờ thế này: Ta chia đôi phần trách nhiệm cùng nhau, có ai khen ta cùng hưởng và ai chê thì ta cũng chịu. Hôm nào đó ta ra thăm đài tưởng niệm Bắc Sơn và chụp với nhau mấy tấm hình làm kỷ niệm”.
Có rất nhiều tấm hình tôi chụp cùng Ông Sáu trên đài tưởng niệm Bắc Sơn vào lúc gần trưa của một ngày trời không đẹp lắm. Thời điểm đó là khoảng trung tuần tháng 3/2003, người chụp ảnh là đại tá Hà, cận vệ của Ông Sáu, sau đó KTS Đoàn Đức Thành đưa vào các bài viết của anh.
Cho đến tận bây giờ, Đài tưởng niệm Bắc Sơn vẫn là cuộc lao động nhọc nhằn nhất mà tôi đã kinh qua. Việc thì lớn, nhiều loại việc mà tôi và những người quanh tôi lúc đó đều chưa từng làm. Nhưng tất cả đều không đáng ngại bằng một hội đồng với sự hiện diện của bốn thứ trưởng cùng toàn thể hai đoàn chủ tịch của hai hội chuyên ngành và một ông trưởng ban quản lý nhiều toan tính ngoài kiến trúc, rất khó lường…
Nhưng cũng từ đây tôi biết thêm được rất nhiều điều: Biết bảo thủ, biết lỳ lợm, biết im lặng, biết xin phép rút lui và khó hơn cả là biết chịu thiệt để cố giữ cho công trình được trọn vẹn như mình hằng mong ước.


